Bạn đang xem bài viết Tác phẩm Hịch Tướng Sĩ Sáng tác trước kháng chiến chống Nguyên – Mông lần 2, Trần Quốc Tuấn tại thcshuynhphuoc-np.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, hịch tướng sĩ là một tác phẩm mang tính biểu tượng và ý nghĩa lớn nhất của nhà văn Trần Quốc Tuấn, đã được sáng tác trước kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai. Tác phẩm này không chỉ khắc họa cuộc sống, tình hình xã hội và tâm lý con người thời kỳ đó, mà còn truyền tải thông điệp vừa mang tính lịch sử vừa đậm tính nhân văn, tạo nền tảng cốt lõi cho việc phát triển văn học dân tộc sau này.
Hịch tướng sĩ được xây dựng dựa trên lịch sử và truyền thuyết về Lý Thường Kiệt – một danh tướng huyền thoại của dân tộc, người đã có công lớn trong việc chống lại quân Nguyên – Mông xâm lược. Trần Quốc Tuấn tài hoa đã tái hiện lại hình ảnh của một người lính anh dũng và tâm hồn đầy khát vọng giành lại công lý. Ngoài việc tường thuật đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử, tác giả còn khéo léo sử dụng nghệ thuật lồng ghép các tình tiết và câu chuyện để làm nổi bật tinh thần và lòng dũng cảm của nhân vật chính.
Từng trang sách của Hịch tướng sĩ đều gợi mở tớp vào một thế giới đầy màu sắc của thời gian xa xưa, nơi mà những cuộc tranh đấu và chiến thắng của Lý Thường Kiệt trở nên sống động. Tác phẩm này không chỉ đơn thuần là một bức tranh về quá khứ, mà còn là một thông điệp sâu sắc về tình yêu quê hương, lòng kiên cường và sự hy sinh vì đất nước. Đồng thời, Hịch tướng sĩ cũng thể hiện sự đa chiều trong nhân vật Lý Thường Kiệt, khiến người đọc phải thấu hiểu về sự phức tạp và sâu sắc của con người.
Tác phẩm Hịch tướng sĩ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố và nâng cao ý thức dân tộc, đồng thời lan tỏa tinh thần yêu nước và sức mạnh trí tuệ của dân tộc Việt. Không chỉ là một tác phẩm văn học nổi bật, Hịch tướng sĩ còn được xem như một bài học lịch sử và một lá cờ văn chương cổ truyền gợi lên lòng tự hào và tình yêu đối với quê hương.
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Điều đó đã được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. Văn bản được tìm hiểu trong chương trình Ngữ văn 8.

Dưới đây là tài liệu giới thiệu đôi nét về Trần Quốc Tuấn cũng như bài Hịch tướng sĩ. Các bạn đọc có thể tham khảo để biết thêm những kiến thức hữu ích về tác phẩm.
Hịch tướng sĩ
Nghe đọc tác phẩm Hịch tướng sĩ:
Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu[2] chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức, một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được!
Các ngươi con nhà võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xưa, ta không nói đến nữa. Nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên mới đây.
Vương Công Kiên là người thế nào, tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập lại là người thế nào, mà giữ thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu, đường đường chống với quân Mông Kha đông đến hàng trăm vạn, khiến cho nhân dân đời Tống đến nay còn đội ơn sâu!
Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào, tì tướng của ông là Xích Tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam chướng xa xôi nghìn trùng, đánh bại được quân Nam Chiếu trong vài tuần, khiến cho quân trưởng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng kém gì.
Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái thường để đãi yến nguỵ sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ khôn đuổi được quân thù; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đống củi” là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” làm răn sợ. Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên; khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ; có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão; chẳng những tông miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các ngươi trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền; chẳng những danh hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui vẻ phỏng có được không?
Nay ta chọn binh pháp các nhà hợp làm một quyển gọi là Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy của ta, thì mới phải đạo thần chủ; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ; chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi giặc giã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Ta viết ra bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.
I. Đôi nét về Trần Quốc Tuấn
– Trần Quốc Tuấn (1231? – 1300), tước Hưng Đạo Vương.
– Ông là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc thời Trần.
– Năm 1285 và năm 1287, quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta, lần nào ông cũng được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thống lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang.
– Vào đời vua Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) rồi mất ở đấy.
– Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đến thờ ở nhiều trên đất nước.
– Các tác phẩm của ông: Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ), Binh gia diệu lý yếu lược (Binh thư yếu lược), Vạn Kiếp tông bí truyền thư (Sách bí truyền của tông phái Vạn Kiếp, đã bị thất lạc).
II. Giới thiệu về Hịch tướng sĩ
1. Thể loại
– Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài.
– Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lí lẽ sắc bén, có dẫn chứng thuyết phục.
– Đặc điểm nổi bật của hịch là khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe.
– Hịch thường được viết theo thể văn biền ngẫu (từng cặp câu cân xứng với nhau).
– Một bài hịch thường gồm các phần: phần mở đầu có tính chất nêu vấn đề; phần thứ hai nêu truyền thống vẻ vang trong sử sách để gây lòng tin tưởng; phần thứ ba nhận định tình hình, phân tích phải trải để gây lòng căm thù giặc, phần kết thúc nêu chủ trương cụ thể và kêu gọi đấu tranh.
2. Hoàn cảnh sáng tác
– Hịch tướng sĩ do Trần Quốc Tuấn viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ hai (1285).
– Bài hịch được làm để khích lệ tướng sĩ học tập cuốn Binh thư yếu lược (Sách tóm tắt những điều cốt yếu về binh pháp) do chính Trần Quốc Tuấn soạn.
3. Bố cục
Gồm 4 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “còn lưu tiếng tốt”: Nêu gương các bậc trung thần nghĩa sĩ.
- Phần 2. Tiếp theo đến “ta cũng vui lòng”: Vạch trần tội ác của giặc và lòng căm thù của vị chủ tướng.
- Phần 3. Tiếp theo đến “vui vẻ phỏng có được không?”: Sai trái của tướng sĩ dưới quyền.
- Phần 4. Còn lại: Lời kêu gọi tướng sĩ ra sức học tập “Binh thư yếu lược”.
4. Tóm tắt
Đầu tiên, Trần Quốc Tuấn đưa ra những tấm gương thể hiện sự trung thành của các vị tướng thời trước. Sau đó ông nêu lên tội ác của quân giặc, bộc lộ nỗi lòng của mình trước hoàn cảnh của đất nước. Ông chỉ ra sự sai trái trong hành động, suy nghĩ của các tướng sĩ. Cuối cùng là lời kêu gọi tướng sĩ học tập theo “Binh thư yếu lược”.
5. Nội dung
Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Điều đó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.
6. Nghệ thuật
Lập luận chặt chẽ, lí lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh, có sức thuyết phục cao, lời văn giàu tính nhạc điệu…
III. Dàn ý phân tích tác phẩm Hịch tướng sĩ
(1) Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu khái quát về Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn
(2) Thân bài
a. Nêu gương các bậc trung thần nghĩa sĩ
Các gương trung thần nghĩa sĩ hi sinh vì chủ:
- Từ quá khứ: Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Kính Đức, Cao Khanh
- Đến hiện tại: Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang…
=> Làm nổi bật tinh thần quên mình vì chủ, vị vua, vì nước.
b. Vạch trần tội ác của giặc và lòng căm thù của vị chủ tướng
- Tội ác và sự ngang ngược của giặc: đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng…
- Nỗi lòng chủ tướng: “Ta thường tới bữa quên ăn… ta cũng cam lòng”.
=> Bộc lộ niềm uất hận dâng lên trong lòng người chủ tướng. Đồng thời khơi gợi sự đồng cảm ở người đọc, người nghe.
c. Sai trái của tướng sĩ dưới quyền
- Hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan trước vận mệnh đất nước.
- Những thú vui tầm thường: chọi gà, cờ bạc, săn bắn, vui thú vườn ruộng, quyến luyến vợ con.
=> Chỉ rõ những hành động sai trái của tướng sĩ dưới quyền để răn đe, cảnh tỉnh.
d. Lời kêu gọi tướng sĩ ra sức học tập “Binh thư yếu lược”
- Vạch rõ ranh giới giữa hai con đường chính và tà.
- Kêu gọi, khích lệ tinh thần tướng sĩ học tập “Binh thư yếu lược”.
(3) Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của Hịch tướng sĩ.
Hịch Tướng Sĩ là một tác phẩm văn học hay, sáng tác trước cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần 2 của đại tướng Trần Quốc Tuấn. Tác phẩm này không chỉ mang lại cho người đọc những trải nghiệm về triều đình xưa, mà còn mang đến những triết lý sinh động và ý nghĩa sâu sắc về lòng yêu nước, tình yêu và con người.
Trong Hịch Tướng Sĩ, Trần Quốc Tuấn đã tài hoa sáng tạo nên những câu chuyện nhập vai tuyệt vời, nhằm truyền tải thông điệp của mình về sự tử tế, tinh thần đồng đội và khát vọng đánh bại kẻ thù ngoại xâm. Qua những nhân vật và tình huống trong tác phẩm, người đọc được đắm chìm trong một thế giới cổ tích, nhưng cũng không thể tránh khỏi cảm giác đau buồn khi đối mặt với những bi kịch và hy sinh.
Ngoài ra, Hịch Tướng Sĩ còn mang đến những bài học quý giá về khát vọng sống, lòng kiên nhẫn và lòng dũng cảm. Nó cho thấy rằng người ta có thể trở thành một người hùng, một tướng lĩnh từ những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất và những đau khổ không tưởng. Tác phẩm này là một minh chứng sự kiên trì và sự khao khát vươn lên vượt qua mọi khó khăn, hoàn thiện bản thân và đạt được mục tiêu cuối cùng.
Cuối cùng, Hịch Tướng Sĩ còn mang đến sự tự hào và niềm tự tin trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Nó là một minh chứng về sức mạnh và bền bỉ của dân tộc Việt, đồng thời khắc họa những phẩm chất vĩnh cửu của người Việt như lòng yêu nước, trí tuệ và lòng dũng cảm. Tác phẩm này không chỉ góp phần củng cố lòng tự hào dân tộc mà còn truyền cảm hứng và khích lệ mỗi người dân trong việc bảo vệ và phát triển đất nước.
Tóm lại, Hịch Tướng Sĩ là một tác phẩm văn học đáng đọc và nghiên cứu. Qua những phiêu lưu và bi kịch của các nhân vật, tác giả đã thành công trong việc truyền tải những thông điệp quan trọng về lòng yêu nước, tinh thần đồng đội và ý chí vượt lên trên mọi khó khăn. Tác phẩm này là một tài sản văn hóa và lịch sử của dân tộc Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và truyền dạy những giá trị tốt đẹp cho thế hệ mai sau.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Tác phẩm Hịch Tướng Sĩ Sáng tác trước kháng chiến chống Nguyên – Mông lần 2, Trần Quốc Tuấn tại thcshuynhphuoc-np.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.
Từ Khoá Liên Quan:
1. Hịch Tướng Sĩ
2. Trần Quốc Tuấn
3. Tác phẩm
4. Sáng tác
5. Kháng chiến
6. Chống Nguyên – Mông
7. Lần 2
8. Việt Nam
9. Lịch sử
10. Chiến tranh
11. Tổ quốc
12. Anh hùng
13. Tình yêu quê hương
14. Giải phóng
15. Chiến thắng