Bạn đang xem bài viết Bài thơ Lượm Sáng tác năm 1949, Tố Hữu tại thcshuynhphuoc-np.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Bài thơ “Lượm”, sáng tác năm 1949 của nhà thơ Tố Hữu, đã trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển của văn học Việt Nam. Với tình yêu và lòng tự hào dành cho đất nước và con người Việt Nam, bài thơ đã góp phần khắc họa một hình ảnh đẹp về sự đoàn kết và lòng yêu nước của người dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giành độc lập. Với nghệ thuật sắc sảo và những hình ảnh tượng trưng tinh tế, Tố Hữu đã thể hiện sự tình cảm mạnh mẽ và sự khắc khoải trước những đau thương và tổn thương mà cuộc chiến mang lại. Mở đầu bài viết này, chúng ta sẽ khám phá những ý nghĩa sâu sắc của bài thơ “Lượm” và tầm ảnh hưởng mãnh liệt mà nó đã để lại trong lòng người đọc.
Bài thơ Lượm đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh cậu bé Lượm. Tác phẩm được học trong chương trình môn Ngữ văn lớp 6.

thcshuynhphuoc-np.edu.vn sẽ cung cấp tài liệu về nhà thơ Tố Hữu cũng như bài thơ Lượm. Mời tham khảo nội dung chi tiết sau đây.
Lượm
Ngày Huế đổ máu,
Chú Hà Nội về,
Tình cờ chú cháu,
Gặp nhau Hàng Bè.
Chú bé loắt choắt,
Cái xắc xinh xinh,
Cái chân thoăn thoắt,
Cái đầu nghênh nghênh,
Ca-lô đội lệch,
Mồm huýt sáo vang,
Như con chim chích,
Nhảy trên đường vàng…
– “Cháu đi liên lạc,
Vui lắm chú à.
Ở đồn Mang Cá,
Thích hơn ở nhà!”
Cháu cười híp mí,
Má đỏ bồ quân:
– “Thôi, chào đồng chí!”
Cháu đi xa dần…
Cháu đi đường cháu,
Chú lên đường ra,
Ðến nay tháng sáu,
Chợt nghe tin nhà.
Ra thế,
Lượm ơi!
Một hôm nào đó,
Như bao hôm nào,
Chú đồng chí nhỏ,
Bỏ thư vào bao,
Vụt qua mặt trận,
Ðạn bay vèo vèo,
Thư đề “Thượng khẩn”,
Sợ chi hiểm nghèo!
Ðường quê vắng vẻ,
Lúa trổ đòng đòng,
Ca-lô chú bé,
Nhấp nhô trên đồng…
Bỗng lòe chớp đỏ,
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ,
Một dòng máu tươi!
Cháu nằm trên lúa,
Tay nắm chặt bông,
Lúa thơm mùi sữa,
Hồn bay giữa đồng.
Lượm ơi, còn không?
Chú bé loắt choắt,
Cái xắc xinh xinh,
Cái chân thoăn thoắt,
Cái đầu nghênh nghênh.
Ca-lô đội lệch,
Mồm huýt sáo vang,
Như con chim chích,
Nhảy trên đường vàng…
I. Đôi nét về tác giả Tố Hữu
1. Vài nét về tiểu sử
– Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành.
– Quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
– Thân sinh là một nhà nho nghèo, bà mẹ cũng là con một nhà nho, cả hai người đã truyền cho con tình yêu tha thiết với văn học dân gian.
– Năm 12 tuổi, mồ côi mẹ. Sau đó một năm vào học tại trường Quốc học Huế, tham gia phong trào đấu tranh cách mạng.
– Bước vào tuổi thiếu niên, ông tham gia phong trào cách mạng và trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên Dân chủ ở Huế.
– Cuối tháng 4 năm 1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam vào nhà lao Thừa Thiên.
– Tháng 3 năm 1942: ông vượt ngục ra Thanh Hoá tiếp tục hoạt động.
– Cách mạng tháng Tám 1945: Ông là Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa Huế.
– Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông ra Thanh Hoá, lên Việt Bắc công tác ở cơ quan Trung ương Đảng, phụ trách văn hoá văn nghệ.
– Tố Hữu cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam.
– Ông là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Đồng thời ông cũng là một cán bộ cách mạng lão thành của Việt Nam.
– Năm 1996: Được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2. Đường cách mạng, đường thơ
– Tố Hữu là một trong những lá cờ đấu của nền văn nghệ Cách mạng Việt Nam.
– Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật chặng đường cách mạng đầy gian khổ hy sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ.
– Các chặng đường thơ:
- Từ ấy (1937 – 1946): chặng đường đầu tiên của thơ Tố Hữu, đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên quyết tâm đi theo ngọn cờ cách mạng và gồm ba phần Máu lửa – Xiềng xích – Giải phóng.
- Việt Bắc (1947 – 1954): là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người kháng chiến.
- Gió lộng (1955 – 1961): dạt dào những nguồn cảm hứng lớn lao.
- Ra trận (1962 – 1971); Máu và hoa (1972 – 1977): am vang khí thế quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và niềm vui chiến thắng.
- Một tiếng đờn (1978 -1992), Ta với ta (1992 – 1999): hai tập thơ đánh dấu chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu, dòng chảy sôi động của cuộc sống thường nhật với niềm vui, nỗi buồn, được mất, sướng khổ…
II. Giới thiệu về bài thơ Lượm
1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ được sáng tác năm 1949, trong giai đoạn đầu cuộc cuộc kháng chiến chống Pháp.
2. Thể thơ
- Bài thơ được viết theo thể thơ bốn chữ.
- Ngôn ngữ tự nhiên, trong sáng
- Nhịp thơ nhanh, dồn dập
- Hình ảnh giản dị, quen thuộc
3. Bố cục
Gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “ Cháu đi xa dần ”. Cuộc gặp gỡ giữa hai chú cháu và giới thiệu về công việc của Lượm
- Phần 2: Tiếp theo đến “ Hồn bay giữa đồng ”. Sự hy sinh của Lượm.
- Phần 3. Còn lại. Hình ảnh Lượm vẫn còn sống mãi.
4. Nội dung
Bài thơ khắc họa hình ảnh chú bé liên lạc Lượm hồn nhiên, vui tươi, hăng hái, dũng cảm. Lượm đã hi sinh nhưng hình ảnh của em còn mãi với quê hương, đất nước và trong lòng mọi người.
5. Nghệ thuật
Thể thơ bốn chữ, từ láy có giá trị gợi hình và giàu âm điệu, giọng thơ hồn nhiên..
III. Dàn ý phân tích bài thơ Lượm
(1). Mở bài
– Một trong những bài thơ hay viết về đề tài thiếu nhi làm liên lạc chính là bài “Lượm” của nhà thơ Tố Hữu. Tác giả sáng tác bài thơ này vào năm 1949, trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
– Bài thơ đã để lại trong em những ấn tượng sâu sắc. Đặc biệt, hình ảnh nhân vật Lượm đã làm rung cảm tâm hồn em bởi sự hồn nhiên, ngây thơ và sự hy sinh anh dũng của “Lượm” trong một lần chuyển thư “thượng khẩn”.
(2) Thân bài
a. Lượm là cậu bé hồn nhiên, ngây thơ và ngộ nghĩnh
– Lượm có dáng người bé nhỏ “loắt choắt”, chiếc mũ ca lô luôn đội lệch trên đầu. Bé nhỏ nhưng Lượm thật nhanh nhẹn và hoạt bát. Cụm từ “cái chân thoăn thoắt” đã phần nào nói lên điều đó.
– Lượm hiện lên trước mắt em thật ngộ nghĩnh và đáng yêu:
“Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng”
– Một loạt từ láy “loắt choắt”, “xinh xinh” ”thoăn thoắt”, “nghênh nghênh”cộng với điệp từ “cái” có giá trị gợi tả hết sức đặc sắc. Nó có tác dụng tạo nên bức chân dung nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn, hoạt bát rất đáng yêu của người liên lạc nhỏ.
– Sự hồn nhiên, ngây thơ của Lượm còn được thế hiện qua niềm vui khi bản thân được làm liên lạc. Lời đối thoại của Lượm với tác giả đã giúp ta khẳng định được Lượm rất vui sướng khi được trở thành người chiến sĩ nhỏ:
“Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà
Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
Thôi chào đồng chí
Cháu đi xa dần”
– Bằng những từ trực tiếp miêu tả cảm xúc “vui”, “thích”, “cười”, “má đỏ”…, một lần nữa, tác giả khẳng định việc được tham gia chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ đất nước là niềm vui của thế hệ trẻ Việt Nam.
b. Lượm là người có tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ được giao
– Lượm rất dũng cảm trong khi làm nhiệm vụ:
“Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề Thượng khẩn
Sợ chi hiểm nghèo
– Để thư “Thượng khẩn” nhanh tới tay người nhận, Lượm đâu quản hiểm nguy. – Từ “sợ chi” mang nghĩa khẳng định ý chí chiến đấu của người liên lạc nhỏ.
– Đẹp biết bao hình ảnh chiếc mũ ca lô nhấp nhô trên cánh đồng lúa đang làm đòng:
– Đường quê vắng vẻ Lúa trổ đòng đòng Ca lô chú bé Nhấp nhô trên đồng.
– Nhưng rồi, Lượm đã ngã xuống trên cánh đồng quê khi đang làm nhiệm vụ đưa thư “Thượng khẩn”:
“Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng mẫu tươi”
– Lời thơ như nghẹn ngào vì đau đớn trước sự hi sinh của Lượm. Lượm ngã xuống nhưng hồn Lượm vẫn bay giữa đồng lúa thơm ngạt ngào mùi sữa:
“Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng”
– Đây là khổ thơ hay nhất nói về sự hi sinh của những người chiến sĩ. Hương thơm của cánh đồng lúa đang bao bọc, chở che hồn người chiến sĩ tuổi thiếu niên. Không gian nhẹ nhàng mà thiêng liêng bởi có cái thoáng đãng của cánh đồng quê, có vị thơm ngạt ngào của mùi sữa khi lúa trổ đòng… Tất cả giang rộng vòng tay đón Lượm trở về với đất mẹ.
(3) Kết bài
– Với nghệ thuật miêu tả nhân vật kết hợp với kể và biểu hiện cảm xúc, tác giả đã khắc họa thành công nhân vật Lượm. Lượm là người hồn nhiên, ngây thơ nhưng rất dũng cảm. Lượm đã hi sinh anh dũng trong khi làm liên lạc. Anh chính là tấm gương sáng ngời cho tất cả chúng em noi theo.
– Tác phẩm đã khép lại nhưng hình ảnh Lượm mãi mãi lưu giữ trong trái tim em. Em yêu quý và cảm phục người thiếu niên anh hùng đã vui vẻ hi sinh vì quê hương đất nước.
Bài thơ “Lượm” của Tố Hữu, sáng tác năm 1949, là một tác phẩm văn học xuất sắc của nền văn chương Việt Nam. Tuy chỉ dài 4 câu, nhưng bài thơ đã gợi lên trong người đọc những suy tư sâu sắc về cuộc sống và nhân sinh.
Qua những từ ngữ đơn giản và hình ảnh tưởng tượng tinh tế, Tố Hữu đã truyền tải một thông điệp sâu sắc về tính chất và ý nghĩa của con người trong cuộc sống. Sự “lượm” ở đây không chỉ mang ý nghĩa đơn giản là thu thập những vật phẩm vụn vặt, mà còn là biểu tượng cho việc tìm kiếm ý nghĩa đời sống và những giá trị đích thực.
Bài thơ “Lượm” cũng gợi lên trong người đọc những tình cảm sâu thẳm về tình yêu thương và lòng nhân ái. Hình ảnh nhân vật lượm rác đang bị thương, nhưng vẫn giữ được một trái tim ấm áp và mở lòng yêu thương, làm cho người đọc hiểu được ý nghĩa của việc chia sẻ và làm từ thiện trong cuộc sống.
Bài thơ “Lượm” cũng đưa ra một cảnh nhìn sâu sắc về tình hình xã hội của thời đại đó. Từng con người đang vật lộn với những khó khăn và gian khổ của cuộc sống, nhưng vẫn tồn tại những tia hi vọng và lòng yêu thương. Điều này gợi lên sự hy vọng và khát khao của con người trong việc tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn và hướng tới một xã hội công bằng và nhân văn.
Từ những suy nghĩ sâu sắc và ý nghĩa đặc biệt của bài thơ “Lượm”, chúng ta có thể nhận thấy sự vĩnh cửu và tầm quan trọng của tình yêu thương và lòng nhân ái trong cuộc sống. Bài thơ đã gợi lên một cách nhìn mới, đẹp và tinh tế về cuộc sống con người, đồng thời khơi dậy trách nhiệm của mỗi người chúng ta trong việc tạo dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Tóm lại, bài thơ “Lượm” của Tố Hữu đã gắn kết giữa văn chương và cuộc sống, mang lại những giá trị từ thiện và nhân văn cao đẹp. Qua những lời tưởng tượng tinh tế và ý nghĩa sâu sắc, bài thơ đã làm cho người đọc nhận thức và suy ngẫm về cuộc sống và ý nghĩa của mình.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Bài thơ Lượm Sáng tác năm 1949, Tố Hữu tại thcshuynhphuoc-np.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.
Từ Khoá Liên Quan:
1. Lượm Sáng tác
2. Bài thơ
3. Tố Hữu
4. Năm 1949
5. Tình yêu
6. Chiến tranh
7. Tự do
8. Cái chết
9. Trái tim
10. Quê hương
11. Đấu tranh
12. Khát vọng
13. Ánh sáng
14. Mẹ hiền
15. Đàn con