Bạn đang xem bài viết Bài thơ Bầm ơi Tác giả Tố Hữu tại thcshuynhphuoc-np.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Bài thơ “Bầm ơi” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu, được viết vào năm 1954. Truyền cảm hứng từ không khí đại thắng ở Điện Biên Phủ, bài thơ này không chỉ tạo nên sự cảm thông và đồng cảm với những nỗi lòng của người lính chiến trường mà còn truyền tải thông điệp vĩ đại về tình yêu đất nước, tình yêu tự do và tình yêu chiến đấu chống lại ách đồng bằng hiểm hóa. Bài thơ “Bầm ơi” của tác giả Tố Hữu đã trở thành một biểu tượng tiêu biểu cho sự kiên cường và sự hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh giành độc lập. Dưới đây, chúng ta hãy cùng đi vào tìm hiểu về tác giả Tố Hữu và tác phẩm nổi tiếng của ông.
Tố Hữu là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ “Bầm ơi”.
Sau đây, thcshuynhphuoc-np.edu.vn sẽ giới thiệu đến các bạn học sinh tài liệu về nhà thơ Tố Hữu, nội dung của bài thơ Bầm ơi. Mời tham khảo chi tiết dưới đây.
Bầm ơi
Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm…
Bầm ơi có rét không bầm?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền.
Nhớ thương con, bầm yên tâm nhé
Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân.
Con đi xa cũng như gần
Anh em đồng chí quây quần là con
Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em.
Bầm ơi, liền khúc ruột mềm
Có con có mẹ, còn thêm đồng bào
Con đi mỗi bước gian lao
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm!
Bao bà cụ từ tâm như mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.
Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con…
I. Đôi nét về nhà thơ Tố Hữu
– Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành.
– Quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
– Tố Hữu cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam.
– Ông là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Đồng thời ông cũng là một cán bộ cách mạng lão thành của Việt Nam.
– Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
– Các tác phẩm chính:
- Từ ấy (1937 – 1946)
- Việt Bắc (1947 – 1954)
- Gió lộng (1955 – 1961)
- Ra trận (1962 – 1971)
- Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
- Máu và hoa (1972 – 1977)
- Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)
- Một tiếng đờn (1978 -1992)
- Ta với ta (1992 – 1999)
- Nhớ lại một thời (hồi ký, 2000)
II. Giới thiệu về bài thơ Bầm ơi
1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ “Bầm ơi” được in trong tập thơ Việt Bắc (1948 – 1954).
2. Thể thơ
Bài thơ “Bầm ơi” được viết theo thể thơ lục bát.
3. Nội dung
Bài thơ ca ngợi tình hình ảnh người mẹ, với tình cảm chân thành, thắm thiết của anh bộ đội với người mẹ nơi hậu phương.
4. Nghệ thuật
- Thể thơ lục bát mộc mạc nhưng giàu sức biểu cảm.
- Hình ảnh gần gũi, quen thuộc.
- Cách gọi “Bầm ơi!”, từ ngữ địa phương thể hiện sự gắn bó, tình cảm và vô cùng trân trọng.
Bài thơ “Bầm ơi” của Tố Hữu là một tác phẩm văn học tuyệt vời mang đậm tinh thần của cuộc chiến trường kỳ. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh mạnh mẽ để truyền tải thông điệp về tình yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc và ý chí chiến đấu không ngừng nghỉ. Bài thơ đã trở thành biểu tượng của sự kiên cường và ý chí bất khuất của người Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Đầu tiên, qua bài thơ, Tố Hữu đã minh họa một cảnh tượng hùng vĩ của một đồng cỏ bất tận trải dài khắp nơi. Đây là biểu trưng cho quê hương Việt Nam, cho cái đẹp và hi vọng của dân tộc. Từng câu thơ, từng từ ngữ đã mô tả chân thật và sắc nét vẻ đẹp tự nhiên và hoang sơ của quê hương. Tuy nhiên, bên cạnh hình ảnh ấy, tác giả cũng đưa vào những miêu tả đau thương về đứa bé mồ côi Bầm, biểu tượng cho những nạn nhân của chiến tranh.
Thứ hai, qua tác phẩm, Tố Hữu đã khéo léo tạo dựng một tâm trạng hùng phấn, đức tin và lòng dũng cảm của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh. Ngôn ngữ sắc bén và hình ảnh sinh động đã thể hiện rõ ràng tình yêu quê hương và ý chí bất chấp khó khăn của người dân. Bài thơ tạo nên một tác động mạnh mẽ, khiến người đọc không thể không cảm nhận được lòng tự hào và niềm tin vững chắc trong sức mạnh tinh thần của dân tộc.
Cuối cùng, bài thơ “Bầm ơi” đã gửi gắm thông điệp về tình yêu đất nước và ý chí chiến đấu không đổi của người Việt Nam. Tố Hữu đã truyền cảm hứng và động viên mọi người không bỏ cuộc trước khó khăn, không chùn bước trước hiểm nguy. Ông đã nhấn mạnh tình yêu và hi sinh cho quê hương là trên hết, thây ma ngoại xâm là nhục nhã và phải tiêu diệt.
Tóm lại, bài thơ “Bầm ơi” của Tố Hữu là một tác phẩm có giá trị văn học cao, mang trong mình thông điệp sâu sắc về tình yêu đất nước và lòng niềm tin vững chắc của người dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh. Bài thơ đã và đang trở thành biểu tượng cho sự kiên cường và ý chí bất khuất của người Việt Nam, và luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thế hệ sau.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Bài thơ Bầm ơi Tác giả Tố Hữu tại thcshuynhphuoc-np.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.
Từ Khoá Liên Quan:
1. Bài thơ Bầm ơi
2. Tác giả Tố Hữu
3. Tình yêu quê hương
4. Tận hưởng cuộc sống
5. Lòng trung thành
6. Biểu tượng lính chiến
7. Hy sinh vì tổ quốc
8. Đồng đội tốt
9. Giai điệu của quê hương
10. Bầm – biểu tượng của sự kiên nhẫn
11. Những kỷ niệm chiến tranh
12. Thương nhớ quê hương
13. Gác lưng trời cao
14. Công lao to lớn của những người lính
15. Nỗi nhớ không tên.